Tin tức

Bình đẳng giới trong giáo dục

Trong giáo dục và đào tạo (GD và ÐT), sự bất bình đẳng bén rễ ngay trong hệ thống giáo dục và biểu hiện ở tỷ lệ học sinh nữ tham gia ở cấp tiểu học và THCS thấp hơn tỷ lệ học sinh nam, nhất là ở các vùng nghèo và vùng dân tộc thiểu số. Học sinh nam có nhiều cơ hội quay trở lại học tiếp hơn học sinh nữ. Tỷ lệ trẻ em gái ở các tỉnh miền núi đi học còn thấp, chủ yếu là các em phải ở nhà giúp gia đình, trường nội trú ở quá xa nhà và một vài nơi vẫn còn tục lệ lấy chồng sớm. Báo cáo ‘Ðánh giá tình hình giới ở Việt Nam 12-2006’ do các tổ chức quốc tế: WB, ADB, DFID và CIDA  phối hợp thực hiện cho thấy, trong quá trình đổi mới nội dung, chương trình sách giáo khoa, mặc dù đã có nhiều cố gắng trong việc lồng ghép giới vào chương trình và các hoạt động ngoài giờ lên lớp, nhưng hiện nay vẫn còn có các định kiến giới trong các tài liệu giáo dục và sách giáo khoa trong việc chia sẻ việc nhà, phân biệt đối xử trong lực lượng lao động và các hành vi mang lại rủi ro cho nam và nữ thanh niên (khảo sát sách giáo khoa Giáo dục Công dân lớp 9 mới cho thấy: nữ nhân vật xuất hiện trong 5/20 trường hợp nghiên cứu hoặc câu chuyện kể được xem xét tới, nam nhân vật xuất hiện 11/20 và nhân vật trung tính xuất hiện 4/20).

Trong những năm gần đây, đặc biệt sau khi Luật Bình đẳng giới được thông qua và có hiệu lực, việc thực hiện bình đẳng giới trong giáo dục nói chung và trong quản lý giáo dục (QLGD) đã đạt được những kết quả đáng khích lệ. Tỷ lệ nữ cán  bộ QLGD ngày càng tăng, nhất là ở các cấp học cao, vị thế và vai trò của nữ CBQL ngày càng được khẳng định rõ nét. Tuy nhiên, trong thực tế tỷ lệ nữ CBQL giáo dục vẫn còn thấp, phần lớn chỉ giữ vị trí phó. Họ thường không được tham gia vào quá trình đưa ra quyết định, không được tiếp cận các thông tin và thiếu cơ hội trao đổi, thảo luận, nhất là ở những vùng khó khăn, vùng dân tộc thiểu số.

Dự án hỗ trợ đổi mới quản lý giáo dục (SREM) đã tiến hành khảo sát tại các tỉnh Kiên Giang, Gia Lai, Kon Tum, Lai Châu, Ðiện Biên, Hà Giang và Phú Yên, nơi được xem là tỉnh ‘khó khăn’ cho thấy: Phụ nữ đang phải gánh nặng gấp hai lần so với nam giới, điều đó có phần ảnh hưởng đến sự phát triển chuyên môn của phụ nữ. Suy nghĩ truyền thống về việc phân chia vai trò của nam giới và nữ giới trong gia đình vẫn còn. Thực tế nhiều trường hợp chồng không chia sẻ công việc nhà với vợ. Công việc gia đình là cản trở chính đối với sự phát triển chuyên môn của phụ nữ, đặc biệt khi họ phải dành thời gian cho tập huấn và tự học.

ÐỂ cải thiện điều kiện và tăng sự tham gia của nữ CBQL trong tiến trình đổi mới QLGD, Dự án SREM đã triển khai các hoạt động nhằm nâng cao nhận thức cho cả nam giới và phụ nữ ở các cương vị quản lý trong ngành giáo dục về tầm quan trọng của bình đẳng giới trong quá trình đổi mới QLGD, thông qua việc tăng cường sự tham gia của nữ CBQL giáo dục ở các vùng xa xôi, hẻo lánh và làm nổi bật sự đóng góp của họ vào sự nghiệp đổi mới QLGD. Nhiều ý kiến của nữ cán bộ ngành giáo dục đã đề xuất đưa năng lực ‘quản lý gia đình’ vào tiêu chí bổ nhiệm hiệu trưởng bởi vì các công việc quản lý gia đình có liên quan những chức năng quan trọng trong công việc của hiệu trưởng, như quan tâm, chăm sóc, khả năng nắm bắt tổng quan vấn đề, khả năng thực hiện nhiều công việc cùng một lúc.

Ngoài sự quan tâm của Nhà nước trong đổi mới các cơ chế chính sách, cơ sở hạ tầng xã hội được cải thiện để họ có điều kiện để phát triển sự nghiệp (hệ thống nhà trẻ, mẫu giáo tốt hơn…). Ðể  nâng cao quyền hạn hơn nữa cho phụ nữ trong giáo dục, nhiều ý kiến cho rằng: Cần thực hiện hai giải pháp. Trước hết là, giải pháp về mặt chính trị, tức là thiết lập một hệ thống luật pháp nhằm thúc đẩy sự bình đẳng giới và đánh giá tác động của các chính sách để bảo đảm hiệu quả của chúng. Thứ hai là, giải pháp về mặt văn hóa, tức là thay đổi nhận thức của mọi người trong xã hội nhằm góp phần loại bỏ những suy nghĩ định kiến về vai trò và chức năng của phụ nữ và nam giới. Thực hiện bình đẳng giới không chỉ liên quan nữ giới mà liên quan cả nam giới vì chỉ khi nào đạt được sự bình đẳng giữa nam giới và nữ giới, chất lượng cuộc sống và điều kiện kinh tế-xã hội mới được nâng lên…